Monday, January 1, 2001

Kinh nghiệm dùng dứa gai chữa bệnh

Dứa gai, tên khác là dứa dại, dứa gỗ... là một cây nhỏ, cao 1 - 2m. Thân có rễ phụ dài. Lá mọc tập trung ở ngọn, hình dải hẹp, cứng, mép và gân giữa có gai cứng. Cụm hoa gồm hoa đực và hoa cái. Quả to khi chín màu vàng.

Nhiều bộ phận của cây dứa gai được sử dụng làm thuốc theo kinh nghiệm dân gian:

Rễ dứa: thu hái quanh năm. Loại rễ non chưa bám đất càng tốt, đào về rửa sạch, thái mỏng, phơi khô. Khi dùng lấy 8g rễ (nướng qua) phối hợp với vỏ cây đại (sao vàng), rễ si, rễ cau non, hương nhu, tía tô, hoắc hương mỗi vị 8g; hậu phác 12g; thái nhỏ; sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần, chữa phù thũng.

Chữa chứng tiểu dắt, tiểu ít, nước tiểu vàng đục, phù thận: rễ dứa gai 200g, râu ngô 150g, củ sả 50g, trấu gạo nếp (sao thơm) 50g, nõn tre 25g, cam thảo dây 25g. Tất cả nấu với 2 lít nước cho sôi kỹ trong 30 phút, đem lọc, thêm đường, uống trong ngày. Người lớn mỗi lần 200 - 300ml; trẻ em tùy tuổi, 100 - 150ml. Ngày 2 - 3 lần. Một đợt điều trị là 5 ngày. Nghỉ 3 ngày, rồi tiếp tục đợt nữa cho khỏi hẳn.

Để chữa tiểu ra cát sỏi, lấy rễ dứa gai, mộc thông, cỏ tháp bút, sinh địa, mỗi vị 20g, thái nhỏ, sắc uống ngày 3 - 5 lần với bột hoạt thạch 10g.

Dùng ngoài: rễ dứa gai (loại rễ non), lá xoan non, ngải cứu, dây tơ hồng, vỏ cây gạo, củ nghệ, mỗi thứ một nắm nhỏ giã nát, trộn với lòng trắng trứng gà, đắp làm thuốc bó gãy xương và chữa lòi dom.

Đọt non: thu hái vào mùa xuân, dùng tươi hay sấy khô, được dùng trong những trường hợp sau:

Chữa sỏi thận: đọt non, dứa gai 20g, ngải cứu 20g, cỏ bợ 30g, đường phèn 10g, tất cả rửa sạch, thái nhỏ, giã nát, thêm nước rồi gạn uống.

Chữa tiểu dắt, tiểu buốt có máu: đọt non dứa gai 20g, mầm rễ cỏ gừng 20g. Sắc uống trong ngày.

Chữa kinh phong trẻ em: đọt non dứa gai 12g, lá chua me, lá xương sông, búp mít mật, cỏ nhọ nồi, mỗi thứ 8g, nhân hạt đào 5 cái. Tất cả giã nhỏ hòa với một chén nước đun sôi để nguội, gạn lấy nước trong, thêm ít đường, uống cách 2 giờ một lần. Cứ mỗi tuổi uống một thìa cà phê.

Dùng ngoài: đọt non, dứa gai giã với lá đinh hương, đắp chữa đinh râu rất tốt.

Quả dứa: dùng tươi hoặc phơi khô.

Chữa xơ gan cổ chướng: quả dứa gai 200g, thân cây ráy gai 200g, vỏ cây quao nước, vỏ cây vọng cách, lá trâm bầu, lá cối xay, rễ cỏ xước, mỗi vị 50g. Có thể thêm 50g cỏ hàn the hoặc 50g cỏ tranh. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước, còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày...

Để chữa viêm gan mạn tính: quả dứa gai 100g, chó đẻ răng cưa 50g, sắc uống ngày một thang.

DS. Đỗ Huy Bích

Sunday, December 31, 2000

Dưa leo nhiều công dụng

Ăn nhiều dưa leo gây lạnh bụng, đầy bụng, không tiêu, gây hư nhiệt. Dưa leo hơi khó tiêu nếu không nhai kỹ. Tránh ăn lúc trời mưa ẩm thấp, người mới ốm dậy. Trẻ em không nên lạm dụng dưa leo sống.

Thành phần trong 100g dưa leo như sau: nước (95%), đạm (0,8%), đường (3%), chất xơ (0,7%), canxi (23mg), phốt pho (27mg), sắt (1mg), vitamin A (0,3mg), vitamin B1 (0,03mg), vitamin B2 (0,04mg), vitamin PP (0,1mg), vitamin C (5mg). Ngoài ra còn có selen, lưu huỳnh, mangan, iod, kali, chất nhầy. 100g dưa leo cung cấp 16 calo.

Quả dưa nhỏ, vỏ càng xanh càng chứa hàm lượng biotin cao (chất bổ dưỡng da), hàm lượng vitamin C và selen cao hơn nhiều so với quả to. Vitamin C và selen tăng cường hệ miễn dịch, phòng chống bệnh tật. Vì vậy, các nhà khoa học khuyến cáo trong trồng trọt nên tăng số lượng quả, hơn là tạo quả to. Dưa leo thuôn dài dưới 20cm, cuống nhỏ có chất lượng tốt nhất.

Theo Tây y, dưa leo có tác dụng lọc máu, lợi tiểu, bài sỏi, hòa tan axít uric và muối urat, phòng chống bệnh thống phong (gút), an thần, hạ sốt, chữa một số bệnh ngoài da như: nếp nhăn, nứt nẻ, da mốc, tàn nhang, da nhờn. Để nuôi dưỡng da mặt, nên đắp dưa leo tươi. Vì giúp da mịn màng nhờ có chất “dung môi sinh vật” đẩy mạnh quá trình trao đổi chất, làm giãn mao mạch trong da dẫn đến tuần hoàn máu được thuận lợi.

Dưa leo nhiều công dụngTác dụng dưỡng da, chống khô da

Thức ăn khai vị: dưa leo thái lát mỏng. Gừng giã nhuyễn, cho nước sôi vào, chắt lấy nước gừng trộn với dưa leo. Còn dùng cho người sợ dưa leo lạnh gây đầy bụng.

Nước dưa leo: dưa leo 1 quả, táo 1 quả, nước chanh 20g, mật ong 20g, cà rốt 1 củ. Ép các loại củ quả rồi cho mật ong, nước chanh trộn đều. Món ăn nhiều sinh tố này bồi bổ sức khỏe mùa hè, chống mỏi mệt, uể oải.

Trẻ em bị lỵ mùa hè, do thấp nhiệt: 10 quả dưa leo non thái nhỏ, nấu với mật mía. Hoặc dưa leo muối nấu lấy nước, nấu cháo cho trẻ ăn.

Canh cho bệnh nhân bị thống phong (gút): dưa leo một quả, bỏ ruột thái mỏng, mộc nhĩ một nắm, muối 2,5g, dầu vừng 25g. Mỡ và xì dầu một ít vừa đủ. Xào mộc nhĩ trước, cho dưa leo sau, nêm gia vị.

Cháo thuốc chữa động kinh: lấy 50g dưa leo non đun lấy nước, cho 50g tiểu mạch vào, nấu cháo nhừ, thêm 15g đường phèn.

Lợi tiểu, tiêu phù: dưa leo thái lát, nấu sôi với ít dấm, ăn cả cái lẫn nước.

Súp dưa leo muối: dưa leo muối 200g thái lựu, thịt bò nạc 200g thái lựu, tỏi 3g, hành 3g, cần tây 10 gam, dầu ô-liu 5g, gia vị chanh tiêu. Món ăn ngon mát vào mùa hè.

Dưa leo làm mỹ phẩm: lấy 2 lát dưa leo nghiền nhuyễn, trộn thêm 1 lòng đỏ trứng cút, 1 thìa dầu ăn, 1 thìa mật ong, trộn đều thành hỗn hợp mịn dẻo, cho vào tủ lạnh nửa giờ. Trước khi đi ngủ, xoa lên mặt để 30 phút đến 1 giờ thì rửa sạch và để cho khô trước khi nằm. Tác dụng dưỡng da, chống khô da.

Quả dưa nhỏ, vỏ càng xanh càng chứa hàm lượng biotin, hàm lượng vitamin C và selen cao hơn nhiều so với quả to

Chữa hôi miệng do tỳ vị nhiệt: dưa leo gọt lấy vỏ nấu nước uống hàng ngày.

Chữa xơ vữa động mạch:

- Dưa leo 1 trái, cà chua 1 trái. Rửa sạch, xắt lát, thêm muối và đường trắng, dấm, trộn gỏi thì dùng.

- Dưa leo, đậu hủ ky ngâm nước 200g, bột năng, dầu ăn, hành hoa, gừng tươi sợi, tỏi lát, muối, bột nêm, nước tương, dấm, nước dùng với mỗi thứ vừa đủ. Đậu hủ ky cắt lát dài 4cm cho vào chén, phết lên bột năng, dưa leo xắt lát dài 3cm, rộng 1cm. Đổ dầu vào chảo, cho nóng, thêm đậu hủ ky chiên, vớt ra cho ráo dầu. Chừa dầu trong chảo, thêm gừng hành tỏi phi thơm, đổ dưa leo xào đến gần chín, thêm đậu hủ ky, thêm nước dùng, nêm muối bột nêm nước tương dấm, sau khi nấu sôi dùng bột năng làm xốt, rưới dầu mè thì dùng.

Chữa cao mỡ máu:

- Dưa leo 250g, nấm mèo đen ngâm nước 50g, dầu ăn, muối, hành hoa, gừng băm với mỗi thứ vừa đủ. Dưa leo xắt lát. Bắc chảo lên bếp, đổ dầu, hành, gừng phi thơm, thêm dua leo, nấm mèo đen đảo nhanh, thêm muối xào chín.

- Dưa leo 500g, đường trắng, dầu mè, muối, dấm trắng với mỗi thứ vừa đủ. Dưa leo móc bỏ ruột, xắt lát dài 5cm, rộng 2cm, cho vào tô, ướp muối 5 phút, chắt nước ra. Bắc chảo lên bếp, đổ nước dưa leo vào, đường, đun sôi cho đặc, thêm dấm, rưới lên dưa leo, ngâm 1 giờ thì rưới dầu mè.

Dưa leo nhiều công dụng

Chữa bệnh đái tháo đường:

- Dưa leo 250g, tỏi băm 30g, nước tương, dấm, dầu mè với mỗi thứ vừa đủ. Dưa leo xắt lát, chứa trong thau. Tỏi băm, nước tương, dấm, dầu mè làm xốt, trộn vào dưa leo làm gỏi.

- Dưa leo 500g, sữa đậu nành 250ml, tỏi băm vừa đủ. Dưa leo rửa sạch vỏ, ngâm trong nước ấm vài phút, xắt nhuyễn, vắt nước cốt, gạn lọc qua vải sạch, lấy nước. Sữa đậu nành đổ vào nồi đất, đun sôi bằng lửa vừa, trộn vào nước dưa leo, thêm tỏi băm một ít trộn đều. Dùng sáng và chiều.

Chữa tàn nhang:

Dưa leo 1 quả, xắt nhỏ, ép lấy nước, trộn với sữa chua thành kem bôi mặt. Mỗi lần 20 phút, 2 lần/ngày.

Chữa da mặt sạm, thô do bôi mỹ phẩm “dỏm”, ra nắng nhiều:

Dưa leo 2 quả, mướp 1 quả, xắt miếng ép lấy nước, cho mật ong vừa đủ thành một thức uống ngọt. Bã nhào nhuyễn với đậu phụ thành thuốc đắp 20 phút thì rửa sạch. Cách ngày một lần.

Giảm béo phì:

- Hàng ngày lấy khoảng 120g dưa leo tươi xắt miếng, trộn dầu dấm, gia vị để ăn như một món salat. Có thể kèm với giá đậu xanh sống, cà chua chín tươi sống, củ cải.

- Dưa leo 200g, bí đao 200g, sơn tra 50g, vỏ quýt tươi 30g, mật ong vừa đủ. Dưa, bí đao, sơn tra bỏ hạt, vỏ quýt xắt nhỏ. Ép lấy nước, hoà mật ong uống hàng ngày.

BS. NGÔ VĂN TUẤN

Mã đề nước hạ sốt

Mã đề nước còn có tên gọi khác là hẹ nước, vợi, là cây thủy sinh ở các ao, hồ nước nông, kênh rạch, bờ suối, ruộng trũng có nước quanh năm. Trong Đông y, vị thuốc từ mã đề nước gọi là trạch tả. Trạch tả có vị ngọt, tính hàn, vào các kinh thận, bàng quang, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi niệu, long đờm...

Trạch tả thuộc cây thân thảo mọc dưới ao, hồ, ruộng nước, cây cao từ 0,5 - 1m, thân củ trắng hình cầu hay hình con quay có đường kính tới 6cm màu trắng mọc thành cụm, có nhiều rễ sợi. Lá có cuống dài, bẹ to mọc ở gốc hình trứng thuôn hay lưỡi mác, phía cuống hơi hẹp lại. Tán hoa ở đỉnh, nhiều hoa, hoa có cuống dài, lưỡng tính, 3 lá đài mầu lục, 3 cánh hoa mầu trắng hay hơi hồng, 6 bì, nhiều tâm bì rời nhau xếp xoắn ốc. Mùa ra hoa vào tháng 4 - 5. Quả bế chín vào tháng 6 - 7. Bộ phận dùng làm thuốc của trạch tả là thân rễ, thu hái vào mùa thu là tốt nhất, cạo hết rễ, rửa sạch, phơi hoặc sấy khô.

Chữa phù thũng do thận: Lá trạch tả 30g, thân cây sậy 100g, râu ngô 100g. Sắc với 3 bát nước, còn 1 bát chia uống hai lần trong ngày. Uống sau bữa ăn trưa và tối. Dùng trong 7-10 ngày.

Hoặc trạch tả, bạch phục linh, trư linh, hạt mã đề mỗi vị 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Chữa ho do viêm họng: Lá trạch tả 30g, lá húng chanh 30g, gừng tươi 5g. Sắc khoảng 300ml nước còn 50ml. Uống trong ngày, nên uống khi thuốc còn ấm. Uống trong 5 ngày.

Chữa mụn nhọt sưng đau (chưa mưng mủ): Lá trạch tả tươi, lá cây lạc địa sinh căn, mỗi vị 15g. Rửa sạch, để ráo, giã nát đắp nơi mụn nhọt sưng đau. Ngày đắp 2 lần. Thực hiện trong 2 ngày.

Chữa chứng hoa mắt, chóng mặt do thiếu máu: Trạch tả 12g, sinh địa 15g, long đởm thảo, sơn chi tử, hoàng cầm, sài hồ, mẫu đơn bì, tri mẫu, cúc hoa, mỗi vị 10g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. Hoặc trạch tả 15g, bạch truật 6g, cúc hoa 12g. Sắc với 3 bát nước còn 1 bát, uống trong ngày. Dùng trong 7-10 ngày.

Chữa bỏng da thể nhẹ (vết bỏng nhỏ và nông): Lá trạch tả tươi, lá cây lạc địa sinh căn, mỗi vị 30g, rửa sạch, giã nát đắp hoặc chườm nhẹ nơi có vết bỏng. Ngày làm 2 lần. Bài thuốc này giúp giảm đau và nhanh hồi phục khi bị bỏng.

Giúp hạ sốt do cảm nóng: Lá trạch tả 20g, cỏ mần trầu 25g, lá tre 30g. Các vị thuốc trên đem sắc với 3 bát nước còn 1 bát. Uống trong ngày khi thuốc còn ấm. Dùng trong 2 ngày.

Hỗ trợ điều trị gan nhiễm mỡ: Trạch tả 20g, hà thủ ô (sống), thảo quyết minh, đan sâm, hoàng kỳ, mỗi vị 15g, sơn tra (sống) 30g, hổ trương 15g, hà diệp 15g. Sắc nước uống, ngày 1 thang.

Lương y Nguyễn Hùng

Rong biển làm thuốc

Tảo biển chứa đa dạng các thành phần dinh dưỡng như giàu iod, acid alginic, alginat, chất béo, chất đường, calci, phospho nên được sử dụng làm thực phẩm và làm thuốc.

Bộ phận dùng là toàn cây khô của một số loài tảo biển. Dược liệu sau khi lấy rửa bằng nước ngọt để loại muối và tạp chất; phơi hay sấy khô ở nhiệt độ thấp.

Vị đắng mặn, tính hàn; vào tỳ, can, thận, rong biển có tác dụng nhuyễn kiên tán kết, hoá đàm, lợi thủy tiết nhiệt. Trị viêm sưng hạch, lao hạch, bướu cổ, nấc, phù nề, viêm tràn dịch mào tinh hoàn. Liều dùng: 6 - 10g bằng cách nấu hầm, xào, pha hãm hoặc kết hợp thuốc khác.

Chữa lao hạch cổ:

Bài 1: tảo biển 12g, tằm vôi 6g. Sao chung, nghiền thành bột mịn. Dùng nước sắc bạch mai để làm hoàn. Chia uống 2 lần.

Bài 2: tảo biển 9g, thổ bối mẫu 9g, hương phụ 9g, hạ khô thảo 9g. Sắc uống.

Chữa phì đại tuyến tiền liệt gây bí đái ở người già: tảo biển 10g, xuyên sơn giáp 10g, lệ chi hạch 15g, quất hạch 15g, vương bất lưu hành 15g. Sắc uống.

Chữa lở ngứa ngoài da: tảo biển 16g, liên kiều 12g, ngưu bàng 8g, hạ khô thảo 8g, nga truật 8g, tam lăng 4g, trần bì 2g, bán hạ 2g. Sắc uống chia 2 lần trong ngày.

Món ăn thuốc có rong biển

Canh thịt nấu rong biển: tảo biển 300g, thịt lợn 100g (hoặc đậu phụ 200g). Thịt lợn băm nhỏ; rong biển đem ngâm nước gạo 1 đêm để khử mặn, rửa sạch, nấu chín tái, cắt đoạn, nấu tiếp cho chín nhừ, thêm thịt băm, dấm, gia vị và hành tươi. Dùng cho các trường hợp viêm tinh hoàn, sưng hạch, nấc cục, bướu cổ lành tính.

Vịt hầm rong biển: rong biển 120g, vịt 1 con. Rong biển ngâm rửa, luộc qua, cắt đoạn; vịt làm sạch, chặt miếng, thêm gia vị hầm nhừ. Một tuần ăn 2 lần. Dùng tốt cho người bướu giáp trạng lành tính (bướu cổ do thiếu iode).

Canh rong biển ý dĩ: rong biển 30g, ý dĩ 30g, trứng gà 3 cái. Rong biển ngâm, luộc, thái lát; ý dĩ nấu chín nhừ để sẵn. Cho dầu vào chảo, đun nóng, đập trứng gà vào, khuấy cho chín, cho canh rong biển ý dĩ vào, thêm gia vị thích hợp. Dùng tốt cho người tăng huyết áp, đau tức vùng ngực, người bệnh u bướu.

Rong biển hầm đậu phụ: rong biển 30g, đậu phụ 100g. Rong biển làm như trên, đậu phụ thái miếng; thêm gừng tươi đập giập và gia vị, dầu rán, hầm cách thủy. Ngày ăn 1 lần, liên tục 15 ngày. Dùng tốt cho người viêm xương hạch và đau khớp ở thanh thiếu niên.

Rong biển hầm củ cải: rong biển 300g, củ cải trắng 250g, thanh quả (quả trám) 50g. Củ cải thái lát, thêm gia vị cùng với trám nấu nhừ. Ăn ngày 1 lần, liên tục 7 - 10 ngày. Dùng tốt cho người viêm họng khô, viêm khí phế quản (thể viêm khô mạn tính, ho ít đờm, khi lạnh ẩm viêm họng, ho, đờm nhiều).

Rượu tảo biển: tảo biển 500g thái vụn, ngâm trong 1.000ml rượu, để sau 1 tháng lấy bỏ bã, chia 2 lần sáng, chiều; uống mỗi lần 20 - 30ml. Dùng tốt cho người viêm sưng hạch bạch huyết.

Kiêng kỵ: Người tỳ vị hư hàn dùng thận trọng.

BS. Tiểu Lan

Kha tử chữa bệnh đường ruột và thanh quản

Vỏ quả chứa tanin (acid galic, acid digalic, acid cachougalic, flobaphen...), polysaccharide, alloy, terchebin, chebutin. Trong hạt chứa dầu màu vàng nhạt. Tanin có tác dụng kháng sinh diệt khuẩn mạnh; alloy có hoạt tính kháng virut;  polysaccharide có tác dụng chống viêm họng, giảm ho nhanh như codein.

Theo Đông y, kha tử vị đắng chua chát, tính ôn; vào kinh phế và đại trường. Có tác dụng liễm phế, lợi yết, hạ khí, sáp tràng, chỉ tả. Trị tiêu chảy, lỵ kéo dài, hen suyễn, đau họng mất tiếng, di tinh, mồ hôi trộm. Ở Ấn Độ, kha tử dùng làm thuốc nhuận tràng, lợi tiêu hóa, bổ và phục hồi sức khỏe; thịt quả làm thuốc đánh răng chữa viêm loét lợi và chảy máu; kha tử phối hợp các dược liệu khác trị táo bón, rối loạn tiết niệu, bệnh tim... Liều dùng 6-12g. Chữa khản cổ thì dùng sống. Trị lỵ, tiêu chảy thì nướng cháy vỏ để dùng.

Kha tử trị hen suyễn, đau họng mất tiếng, tiêu chảy mạn tính, lỵ kéo dài, di tinh, mồ hôi trộm.

Kha tử trị hen suyễn, đau họng mất tiếng, tiêu chảy mạn tính, lỵ kéo dài, di tinh, mồ hôi trộm.

Một số bài thuốc trị bệnh có kha tử:

Trị phế hư, ho hen, khản tiếng

Bài 1 - Kha tử thanh âm: kha tử 12g, cát cánh 12g, cam thảo 8g. Sắc uống.

Bài 2: kha tử 4g, đảng sâm 4g. Sắc uống 3 lần trong ngày. Chữa ho lâu ngày.

Bài 3: kha tử 8g, hạt na rừng 8g, hạt tía tô 8g, hạt cải trắng 8g, sâm nam 8g, mạch môn 8g. Sắc uống. Chữa ho có đờm, suyễn thở lâu ngày.

Trị tiêu chảy lâu ngày, lỵ kinh niên, viêm ruột đại tiện ra máu, tiểu ra máu, băng lậu đới hạ

Bài 1: kha tử 12 quả. 6 quả để sống, 6 quả nướng bỏ hạt; sao vàng tán bột. Chữa xích bạch lỵ. Nếu lỵ ra máu, dùng nước sắc cam thảo để chiêu thuốc; nếu lỵ ra đờm thì dùng nước sắc cam thảo chích (tẩm mật sao) để chiêu thuốc.

Bài 2 - Bột kha tử: kha tử lượng vừa đủ, nướng bỏ hạch, tán thành bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8g, chiêu bằng nước cơm. Trị lỵ, tiêu chảy lâu ngày làm hao tổn chân khí.

Bài 3 - Chân nhân dưỡng tạng thang: kha tử 6g, đảng sâm 12g, bạch truật 12g, đương quy 12g, gừng nướng 6g, nhục đậu khấu 6g, thạch lựu bì 6g, mộc hương 6g, cam thảo 6g, nhục quế 4g. Sắc uống ngày 1 thang, chữa lỵ mạn tính.

Bài 4 - Kha tử kép: kha tử 12g, hoàng liên 6g, mộc hương 6g. Tán thành bột. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 4-8g, chiêu với nước. Chữa ngộ độc thức ăn do nhiễm khuẩn hay tiêu chảy mạn tính, lỵ mạn tính, đau bụng có sốt.

Bài 5: kha tử 6g, phòng phong 6g, trần bì 6g, mạch nha 6g, cát căn 2g, sơn tra 2g. Sắc uống. Trị trẻ nhỏ bị tiêu chảy.

Lưu ý: Kha tử chữa các bệnh mạn tính nên ho có đờm, tả, lỵ mới mắc không nên dùng. Khi điều trị bệnh đường ruột, liều nhỏ cầm tiêu chảy, nhưng liều lớn lại gây tiêu chảy.

TS. Nguyễn Đức Quang

Thuốc từ quả bầu

Thịt quả bầu vị ngọt, tính hàn, có tác dụng giải nhiệt, trừ độc, mát máu, chữa đái dắt, tiêu sỏi, trừ thủy thũng phù nề, mụn nhọt, tiêu khát (đái tháo đường) tiêu các loại viêm nhiệt ở phổi gây ho, tiêu chảy, tắc mật gây vàng da, tinh hoàn sưng đau... Lá vị ngọt, tính bình; hoa và tua cuốn có tác dụng tắm cho trẻ ngừa bệnh ngoài da (rôm sảy, sởi, mụn nhọt...). Hạt chữa răng đau lung lay, tụt lợi. Lá bầu gói thịt chó để nấu nướng, làm dịu bớt tính nóng của thịt chó.

Quả bầu là món ăn thông dụng trong ngày hè, cũng là vị thuốc phòng trị nhiều bệnh.

Bầu được dùng làm thuốc chữa các bệnh:

Đái dắt: quả bầu 50g, rau má 30g, râu ngô 10g, rễ cỏ tranh 20g. Sắc nước uống.

Bí tiểu tiện: quả bầu 200g, hành củ 5 củ cả lá rễ. Sắc nước uống.

Chữa phù thũng: dùng cả quả (vỏ thịt, hạt) sắc với dấm chua lấy nước uống.

Cổ trướng (báng nước): bầu tươi 50-100g đun nước uống. Hoặc phối hợp với vỏ bầu, vỏ bí đỏ, vỏ dưa hấu, vỏ mướp, nấu nước uống.

Viêm gan vàng da - sỏi thận - tăng huyết áp: bầu tươi 500g, giã nhuyễn, vắt nước trộn với 250g mật ong. Ngày uống 2 lần. Mỗi lần 30-50ml.

Chữa táo bón: quả bầu 50g, khoai lang 50g, đường đỏ 30g. Nấu nước uống 3 lần trong ngày. Nếu không đỡ uống liền 5 ngày.

Trị mụn nhọt tái phát hàng năm vào mùa hè ở trẻ em: trái bầu non nấu canh thịt heo nạc với lát gừng, cho trẻ ăn.

Sưng bìu dái căng bóng: trái bầu tươi nấu nước uống, ngậm rửa.

Thủy thũng phù cả mắt cá chân: vỏ quả bầu mới, sao tán bột. Ngày uống 8-10g với nước sắc trần bì lúc đói.

Tiêu chảy ra nước (nhiệt tả): vỏ bầu 1 nắm sao vàng sắc uống.

Đầy bụng không tiêu: vỏ bầu khô hầm trong nồi kín cho thành than tán mịn. Mỗi lần lấy 1 thìa to uống với nước ấm. Cho vài lát gừng càng tốt.

Đái tháo đường: vỏ bầu già khô nấu nước hoặc nướng giòn tán bột để uống.

Phế nhiệt sinh ho: bầu 50g, đun nước uống thay trà trong ngày.

Rong huyết sau đẻ: vỏ bầu già khô (lấy mảnh vỡ cũng được) đập nát đốt thành than tán bột. Uống với nước.

Bệnh ngoài da (lở ngứa, rôm sẩy), phòng sởi đậu ở trẻ em: dùng tua cuốn dây bầu nấu với nước để tắm rửa.

Giải thai độc: dùng tua cuốn và hoa bầu nấu nước uống.

Bổ thận chữa đau lưng: hạt bầu nấu canh bầu dục lợn để ăn cái uống nước.

Viêm lợi miệng, tụt lợi, răng lung lay, sưng mộng răng: hạt bầu 30g, đun nước ngậm, súc miệng.

Sản phụ thiếu sữa: hạt bầu bỏ vỏ sao vàng 40g, đậu đỏ 100g, gạo nếp 100g, nấu cháo ăn hàng ngày. Có thể hầm cùng móng giò lợn.

BS. Phó Thuần Hương

Thiên hoa phấn trị viêm họng

Thiên hoa phấn là tên thuốc của rễ cây qua lâu. Cây qua lâu còn có tên khác là dưa trời, dưa núi, hoa bát, vương qua, dây bạc bát, người Tày gọi là thau ca. Qua lâu thuộc loại dây leo, có rễ củ thuôn dài như củ sắn, lá giống lá gấc, hoa đơn tính màu trắng, quả hình cầu, màu lục có sọc trắng, khi chín có màu đỏ.

Rễ qua lâu được thu hoạch vào mùa thu - đông, tốt nhất là sau khi thu hái quả được ít ngày. Rễ đào về, cạo bỏ vỏ ngoài, rửa sạch, cắt thành từng đoạn, rễ nhỏ để nguyên, rễ to bổ dọc, phơi hay sấy khô để làm thuốc.

Thiên hoa phấn.

Một số bài thuốc dùng thiên hoa phấn

Chữa viêm amidan mạn: Thiên hoa phấn 8g; sinh địa 16g; hoài sơn, huyền sâm, ngưu tất, mỗi vị 12g; sơn thù, trạch tả, đan bì, phục linh, tri mẫu, địa cốt bì, mỗi vị 8g; xạ can 6g. Sắc uống ngày 1 thang. Dùng 5-7 ngày.

Sốt nóng do viêm họng, miệng khô khát: Thiên hoa phấn 8g, rễ cây ké lớn đầu 8g, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống 1 lần trong ngày.

Chữa ho do nhiệt: Thiên hoa phấn 30g, gạo tẻ 100g. Sắc thiên hoa phấn, bỏ bã lấy nước, cho gạo vào nước thuốc nấu cháo ăn trong ngày, có tác dụng thanh phế, chỉ khát, sinh tân dịch... chữa ho do nhiệt hiệu quả.

Hỗ trợ điều trị đái tháo đường: Thiên hoa phấn 8g; thục địa, hoài sơn, mỗi vị 20g; đơn bì, kỷ tử, thạch hộc, mỗi vị 12g; sơn thù, sa nhân mỗi vị 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 10 ngày 1 liệu trình.

Hỗ trợ điều trị thấp khớp: Thiên hoa phấn, thổ phục linh, cốt toái bổ, kê huyết đằng, thạch cao, đơn sâm, sinh địa, rau má, uy linh tiên, hy thiêm, khương hoạt, độc hoạt, mỗi vị 12g; bạch chỉ 8g; cam thảo 4g. Sắc uống ngày 1 thang. Uống 10 ngày 1 liệu trình.

Phụ nữ mới sinh sữa không xuống: Thiên hoa phấn đốt tồn tính, tán nhỏ, ngày uống 16-20 viên đến khi sữa xuống. Hoặc: Thiên hoa phấn, sài hồ, đương quy, xuyên sơn giáp, mỗi vị 8g; bạch thược 12g; thanh bì, cát cánh, thông thảo, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày 1 thang.

Lưu ý: Không dùng thiên hoa phấn cho người có tỳ vị hư yếu, tiêu chảy, phụ nữ có thai.

Bác sĩ Thu Vân

Kinh nghiệm dùng dứa gai chữa bệnh

Dứa gai, tên khác là dứa dại, dứa gỗ... là một cây nhỏ, cao 1 - 2m. Thân có rễ phụ dài. Lá mọc tập trung ở ngọn, hình dải hẹp, cứng, mép và ...